Các đầu xe công ty chuyên chở tại Vận tải Bắc Đào
Dưới đây là các đầu xe công ty chuyên chở tại Vận tải Bắc Đào. Chúng tôi sẵn sàng phục vụ tất cả khách hàng
Dưới đây là các đầu xe công ty chuyên chở tại Vận tải Bắc Đào. Chúng tôi sẵn sàng phục vụ tất cả khách hàng
Phát biểu tại “Hội nghị thường niên Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) năm 2022” ngày 16/12, ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch VLA cho biết năm 2022, mặc dù phải tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng ngành dịch vụ logistics nước ta đã vượt qua một cách mạnh mẽ, tiếp tục giữ đà tăng trưởng và phát triển bền vững, xứng với vai trò là ngành dịch vụ trọng yếu trong nền kinh tế. CƠ HỘI SONG HÀNH THÁCH THỨC Nổi bật là việc các hội viên đã vượt qua khó khăn sau đại dịch để đạt kết quả kinh doanh đáng khích lệ với tỷ lệ tăng trưởng bình quân từ 12% - 15%. Mặt khác, năm qua, VLA cũng đã khẳng định vai trò Hiệp hội đầu tàu trong công tác phản biện chính sách, với kết quả thành công qua việc TP.HCM và TP. Hải Phòng miễn, giảm thu phí sử dụng hạ tầng cảng biển áp dụng cho hàng hóa vận tải bằng đường thủy nội địa. Một thành công khác trong quan hệ hợp tác quốc tế đó là Đại hội của Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận Vận tải Quốc tế ở Busan tháng 9/2022 đã nhất trí chọn Việt Nam là nơi đăng cai Đại hội Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận Vận tải Quốc tế vào năm 2025, tại thủ đô Hà Nội. Tới đây, 2023 Hội nghị FIATA RAP kết hợp UNESCAP Meeting và AFFA Meeting giữa kỳ cũng sẽ được tổ chức tại Việt Nam. Đây là một vinh dự to lớn với ngành dịch vụ logistics Việt Nam…. Khẳng định vai trò quan trọng của ngành dịch vụ logistics, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho rằng thông qua Nghị định số 96/2022/NĐ- CP được ban hành ngày 29/11/2022, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Công Thương là “chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics. Điều phối, hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội phát triển dịch vụ logistics, kể từ ngày 01/12/2022. Như vậy, Bộ Công Thương đã chính thức là cơ quan quản Nhà nước về hoạt động ngành logistics, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy ngành logistics phát triển. Song ông Hải cũng thừa nhận, bước vào năm 2023 ngành dịch vụ logistics có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn. Đó là sự quan tâm của các cấp, các ngành, địa phương về logistics, điển hình lần đầu tiên bổ sung dịch vụ logistics vào ngành công thương. Cùng với đó, rất nhiều địa phương xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển ngành. Gần đây nhất là xây dựng cảng Liên Chiểu, hay trong chuyến thăm chính thức đến Hà Lan Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định Việt Nam mong muốn trở thành trung tâm logistics, trung chuyển hàng hóa quốc tế. Thuận lợi nữa đó là xu hướng đầu tư vào ngành dịch vụ logistics đang gia tăng nhanh chóng như đầu tư vào sân bân Long Thành, đầu tư cảng biển, đường cao tốc… không chỉ bằng nguồn vốn nhà nước mà còn từ doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, hoạt động sản xuất, thương mại Việt Nam đang trên đà phục hồi và tăng trưởng mạnh. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lần đầu tiên nước ta đạt 700 tỷ USD năm 2022. Đây là thuận lợi lớn cho ngành logistics. Thêm nữa, lực lượng doanh nghiệp logistics ngày một lớn mạnh, nhiều doanh nghiệp phát triển tốt, tăng trưởng nhanh đặc biệt với những doanh nghiệp lớn về vận tải, bưu chính, kho bãi… Tuy nhiên, ông Hải cũng thừa nhận, năm 2023 sẽ thực sự khó khăn. Bức tranh kinh tế toàn cầu cho thấy, thế giới đang trong tình trạng suy thoái, lạm phát cao nhất trong 4 thập kỷ trở lại đây do xung đột Nga - Ukraine. Tác động này lan toả khắp thế giới dẫn tới suy thoái nghiêm trọng. Như vậy nhu cầu tiêu dùng trên thế giới sẽ sụt giảm. Các doanh nghiệp dịch vụ logistics sẽ gặp khó khăn. Bên cạnh đó, cước vận tải container giảm nhưng những bất ổn trên thị trường thế giới cũng đang bộc lộ rõ như thiên tai, dịch bệnh… đe dọa tính bền vững của chuỗi cung ứng vẫn hiện hữu. Thách thức nữa là xu hướng xanh hóa hoạt động thương mại là trào lưu tất yếu, sẽ tạo ra tiêu chuẩn cao hơn, đồng nghĩa với việc thêm chi phí nhiều hơn cho hoạt động thương mại và logistics (ví dụ EU đánh thuế carbon). CẦN NGHĨ ĐẾN M&A ĐỂ LOGISTICS VIỆT NAM LỚN HƠN Trước bối cảnh khó khăn này, ông Hải lưu ý, Hiệp hội cần có sự phản ứng nhanh nhạy hơn nữa trong các hoạt động liên quan tới ngành logistics. Sự tham gia của hiệp hội cần đa dạng, thường xuyên, nên tiếng nói của VLA cần đủ sức nặng, đúng lúc nhằm tháo gõ khó khăn cho doanh nghiệp. Bên cạnh phản biện, Hiệp hội cần đẩy mạnh chức năng tư vấn chính sách với các cơ quan chính phủ những việc cần làm. Báo cáo với Chính phủ về việc cải tổ Ủy ban 1899 trong tình hình mới, trong đó chính thức kiến nghị đưa VLA thành một thành viên của Ủy ban. Định hướng cho hội viên những xu hướng mới trong logistics như logistics đô thị, logistics thương mại điện tử, logistics nông sản, logistics xanh… hỗ trợ các doanh nghiệp chuyển đổi để phù hợp với xu thế tất yếu trong tương lai. Đối với các doanh nghiệp, ông Hải nhận định, sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp logistics trong nước và nước ngoài hiện rất gay gắt. Nếu doanh nghiệp vẫn quanh quẩn trong “ao nhà”, đến một lúc “ao nhà” chật, lại thêm sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài thì càng chật chội. Chính vì vậy, theo ông Hải, yêu cầu doanh nghiệp logistics tiến ra thị trường nước ngoài là cần thiết. “Doanh nghiệp cần nghĩ đến điều này, nếu quanh quẩn “ao nhà” thì không thể lớn và rất khó cạnh tranh với doanh nghiệp FDI”, ông Hải e ngại. Theo đó ông Hải cho rằng xu hướng M&A là công cụ khá sắc bén để giúp doanh nghiệp logistics Việt Nam phát triển. “Mục tiêu của chúng ta xây dựng các tập đoàn lớn về logistics nhưng không chỉ là tích tụ vốn, mà thông qua M&A để mở rộng quy mô doanh nghiệp”, ông Hải nhấn mạnh. Các doanh nghiệp Việt Nam cần học các doanh nghiệp nước ngoài để chúng ta lớn nhanh hơn, nhưng đây cũng là công cụ khiến các doanh nghiệp nhỏ bị thôn tính, mất quyền kiểm soát, bị thôn tính nếu không nhanh nhạy, không có công cụ phòng vệ thích đáng. Đại diện Bộ Công Thương cũng đề nghị VLA quan tâm, mở rộng tầm phủ sóng của Hiệp hội, đặc biệt đối với các địa phương miền Bắc, miền Trung, vì chủ yếu hiện nay 70% hội viên là miền Nam. VLA cũng cần tư có một kế hoạch hoạt động dài hơi, với thời hạn 5 năm hoặc 10 năm (không phụ thuộc vào nhiệm kỳ Đại hội của Hiệp hội). Đặc biệt, cần có một chiến lược về việc nâng cao năng lực cho doanh nghiệp dịch vụ logistics…
Ma trận của nền kinh tế có quy mô không nhỏ. Cả nước có gần 100 triệu dân, với 25 triệu hộ gia đình. Cả nước có gần 1 triệu doanh nghiệp, trong đó có trên 22,2 nghìn doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); trên 15.000 hợp tác xã, gần 5,1 triệu cơ sở kinh tế cá thể phi nông nghiệp, gần 24.000 trang trại nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trên 700 tỷ USD, với số thị trường nhập khẩu lên đến 200 nước và vùng lãnh thổ, với 15 Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Về xã hội, có trên 15,4 nghìn trường mẫu giáo, có trên 26,2 nghìn trường phổ thông, 242 trường đại học, trên 3.000 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trên 14.000 cơ sở khám chữa bệnh công lập và hàng nghìn cơ sở ngoài công lập… Hàng năm có hàng chục triệu khách quốc tế đến Việt Nam và có hàng triệu người Việt Nam đi du lịch nước ngoài,… VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA LOGISTICS Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, sự kết nối cả ở đầu vào, đầu ra đều do Nhà nước chỉ định. Khi mới chuyển sang cơ chế thị trường, cho đến gần đây về dịch vụ vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp, nhiều cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp vẫn còn ôm đồm các hoạt động như kho bãi, tổ xe, vệ sinh, bảo vệ, dịch vụ ăn uống… Khi cả nước chuyển đổi sang kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, ngày một sâu rộng, việc cạnh tranh cũng rất quyết liệt, “ma trận” này rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết nối chặt chẽ về nhiều mặt, để “sống được”, hơn nữa “sống khỏe” và phát triển. Muốn có sự kết nối này phải nhờ vào dịch vụ logistics, kinh tế số… Thông qua dịch vụ logistics, tính chuyên nghiệp của các hoạt động dịch vụ sẽ gia tăng. Các doanh nghiệp logistics nhờ tính chuyên nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp khác có điều kiện tập trung hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và nghiệp vụ chính cũng sẽ làm cho các hoạt động chính đạt hiệu quả, hiệu suất cao hơn, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế - xã hội. Hiệu quả chung cho kinh tế- xã hội đạt hiệu quả “kép” cũng theo xu hướng này. Tác động của logistics đối với từng loại doanh nghiệp, từng loại cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp được đề cập cụ thể có rất nhiều. MỤC TIÊU ĐẾN 2025 RẤT CAO Quyết định số 221/TTg ngày 22/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi bổ sung Quyết định số 200/TTg ngày 14/2/2017) phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Theo quyết định này, đến năm 2025 các chỉ tiêu chủ yếu về logistics như sau (bảng 1). Tỷ trọng đóng góp của logistics vào GDP đạt 5-6%. Đây là tỷ trọng rất cao khi so với tỷ trọng tương ứng của nhiều ngành kinh tế trong năm 2020 (biểu đồ 1). Theo đó, tỷ trọng logistics/GDP (5-6%) năm 2025 sẽ cao thứ 6 trong 21 ngành, đứng trên 15 ngành, chỉ thấp thua 5 ngành (tất nhiên giá trị tăng thêm của logistics nằm trong nhiều ngành kinh tế). Có ý kiến cho rằng, các tỷ trọng trên là của năm 2022, còn cách năm 2025 tới 3 năm. Đến lúc đó, tỷ trọng của một số ngành có thể sẽ cao lên, thì thứ bậc của logistics sẽ không còn được cao như trên. Tuy nhiên, logistics được tích hợp từ nhiều ngành và điều này sẽ được lý giải bởi chỉ tiêu thứ 2 bên dưới. Nhưng dù thế nào thì đây cũng là mức rất cao. Tốc độ tăng logistics theo mục tiêu đến năm 2025 đạt 15-20%. Đây là tốc độ tăng rất cao, cao gấp đôi, gấp ba tốc độ tăng tương ứng của GDP cả nước theo kế hoạch 2021-2025 (6,5-7%) và khó có ngành nào trong 21 ngành kinh tế đạt được. Đây cũng là tốc độ tăng cao nhất so với các ngành và có thể là rất cao so với thực tế. Theo đó, tỷ trọng giá trị gia tăng của logistics/GDP cả nước đến năm 2025 sẽ cao hơn và thứ bậc cũng sẽ cao hơn năm 2022. Tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics theo mục tiêu đến năm 2025 đạt 50-60%. Một trong những hạn chế lớn của logistics trong thời gian qua là tính kiêm nhiệm còn cao, kể cả các doanh nghiệp, các cơ sở kinh tế, các cơ quan hành chính, sự nghiệp. Hạn chế này một mặt làm tăng biên chế của các đơn vị, nhất là các cơ quan hành chính, sự nghiệp, mặt khác làm cho năng suất lao động thấp, chi phí cho các hoạt động dịch vụ này cao. Do vậy, tăng tỷ trọng thuê ngoài của logistics là đúng hướng và rất cần thiết, ở mức 50-60% là hợp lý, thậm chí còn thấp. Tuy nhiên, việc đo lường và kiểm tra đánh giá thực hiện mục tiêu trên trong thực tế rất khó khăn, tốn kém. Giảm chi phí logistics xuống tương ứng 16-20% GDP. Tỷ lệ chi phí logistics của Việt Nam thời gian qua thuộc loại cao, ảnh hưởng đến giá cả, hiệu quả và sức cạnh tranh của các ngành và của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, logistics không chỉ tăng trưởng cao, tăng tỷ trọng đóng góp vào GDP, mà còn phải giảm chi phí, giảm giá thuê dịch vụ này, trên cơ sở đó giảm giá thành, giá bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, tăng GDP chung của cả nước. Xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics trên thế giới đạt thứ 50 trở lên. Đây là một logic đương nhiên, khi 4 chỉ tiêu trên đạt được thì sẽ tăng thứ bậc của Việt Nam trên thế giới về logistics. Nhưng việc đánh giá và so sánh rất kỳ công, phải có số liệu của các nước mới so sánh được...
Phát biểu tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2022 sáng 26/11, ông Trần Lưu Quang, Bí thư Thành ủy Hải Phòng, cho biết bước sang năm 2022, mặc dù chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng trong 10 tháng năm 2022 tiếp tục ổn định và phát triển. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao; các chỉ số về năng lực cạnh tranh và cải cách hành chính được cải thiện mạnh mẽ. Các ngành dịch vụ truyền thống, có lợi thế của thành phố như dịch vụ cảng biển, dịch vụ logistics đã có những bước phát triển mạnh mẽ; đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố nói riêng, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nói chung. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics trên địa bàn thành phố đạt khoảng 20-23%/năm; tỷ trọng đóng góp vào GRDP thành phố đạt từ 13-15%. Sản lượng hàng hóa qua cảng tăng trưởng mạnh, chiếm thị phần ngày càng lớn trong hệ thống cảng biển của cả nước. Cùng với đó, hạ tầng cảng biển được nâng cấp và đầu tư xây dựng theo hướng đồng bộ, hiện đại, phù hợp với xu hướng phát triển vận tải biển khu vực và quốc tế; hệ thống giao thông kết nối được cải thiện, đồng bộ hơn. Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng đưa vào khai thác bến số 1, số 2 từ năm 2018, đã phát huy vai trò là một cảng nước sâu, cảng cửa ngõ trung chuyển quốc tế và khu vực. "Thành phố cũng đang đẩy nhanh hoàn thiện thủ tục đầu tư xây dựng và khởi công các bến tiếp theo, góp phần đưa Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế dịch vụ lớn và hiện đại, xứng đáng là một trọng điểm kinh tế của cả nước, cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, một mắt xích quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế và tham gia vào chuỗi các cảng biển quốc tế và khu vực", Bí thư Thành ủy Hải Phòng thông tin. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động logistics tại Hải Phòng vẫn còn tồn tại những hạn chế như: Phần lớn sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển khu vực Hải Phòng tiếp tục được lưu chuyển bằng đường bộ, gây áp lực lớn lên hệ thống giao thông; phương thức vận tải hàng hóa bằng đường sắt, đường thủy nội địa còn yếu. Mặt khác, doanh nghiệp logistics trên địa bàn tuy đông về số lượng nhưng năng lực cạnh tranh còn hạn chế, chiếm thị phần thấp; nhân lực logistics thiếu cả về số lượng và chất lượng... Bí thư Thành ủy Hải Phòng cũng nêu rõ: Nghị quyết số 45 của Bộ Chính trị đã xác định “đến năm 2025, xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành trung tâm dịch vụ logistics quốc gia” và “đến năm 2030, thành phố Hải Phòng trở thành trung tâm dịch vụ logistics quốc tế hiện đại bằng cả đường biển, đường hàng không, đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao”. Đây là mục tiêu đồng thời là nhiệm vụ lớn đặt ra cho Hải Phòng trong thời gian tới. Trong bối cảnh đó, để triển khai thực hiện Nghị quyết số 45, Bí thư Thành ủy Hải Phòng cho biết, thành phố đặt ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để đẩy mạnh phát triển dịch vụ logistics trên địa bàn thành phố. Một là, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số trong lĩnh vực cảng biển, logistics. Hai là, tăng cường thu hút đầu tư, xúc tiến thương mại, hình thành các chuỗi dịch vụ logistics chuyên sâu, có giá trị gia tăng cao và liên kết vùng. Ba là, quy hoạch và xây dựng các khu logistics tập trung, có quy mô lớn, gắn với hệ thống cảng biển, khu công nghiệp, khu kinh tế, có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại và thông minh. Bốn là, đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để tập trung đầu tư xây dựng một số công trình hạ tầng, giao thông trọng điểm, có tính liên kết vùng như: Các bến còn lại của Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, nâng cấp Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, nâng cấp hệ thống giao thông kết nối đến các địa phương... Năm là, nghiên cứu xây dựng, phát triển một số cơ sở đào tạo nhân lực phục vụ lĩnh vực dịch vụ logistics. Bí thư Thành ủy Hải Phòng cho rằng Diễn đàn Logistics Việt Nam 2022 là dịp để các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, các nhà khoa học, các chuyên gia trong nước và quốc tế trao đổi, thảo luận về phương hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics trong thời gian tới. "Đây cũng chính là cơ hội để thành phố Hải Phòng có thể nắm bắt được những ý tưởng mới, tham khảo thêm các kinh nghiệm thực tiễn tốt và khuyến nghị chính sách nhằm phát huy hơn nữa những lợi thế, nâng cao vai trò của dịch vụ logistics trong cơ cấu kinh tế của thành phố, tăng cường kết nối và tạo sự lan tỏa trong khu vực", Bí thư Hải Phòng nhấn mạnh.
Tại cuộc tọa đàm, Thủ tướng cùng các đại biểu cấp cao Việt Nam và các doanh nghiệp Hà Lan đã trao đổi những suy nghĩ, ý kiến thẳng thắn, xây dựng, chia sẻ những kinh nghiệm tốt, bài học hay, ý tưởng, sáng kiến đột phá, những giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế-đầu tư giữa hai nước. Ông Dolf van den Brink, Tổng Giám đốc Heineken toàn cầu, nhận định Việt Nam luôn muốn thúc đẩy phát triển bao trùm, bền vững, một nước tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực này. Gần đây, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ về ứng phó biến đổi khí hậu, đạt mục tiêu phát thải bằng 0 vào năm 2050. Khẳng định mong muốn đóng góp tích cực trong lĩnh vực này, ông Dolf van den Brink đề nghị thúc đẩy cơ chế mua bán điện trực tiếp, đề xuất một số nội dung liên quan điện mặt trời… Lãnh đạo Tập đoàn hàng hải Boskalis cho rằng Việt Nam có thể trở thành một trung tâm trung chuyển hàng hải hàng đầu thế giới, đề nghị nghiên cứu thiết lập khuôn khổ pháp lý về khai thác cát trên biển bền vững, Boskalis có thể hỗ trợ tư vấn chính sách trong lĩnh vực này. Cũng tại cuộc tọa đàm, ông Arnout Damen, Giám đốc điều hành Damen Shipyards Gorinchem, thông tin rằng doanh nghiệp dự kiến đầu tư thêm 100 triệu USD trong lĩnh vực đóng tàu tại Việt Nam, đồng thời mong muốn hỗ trợ Việt Nam phát triển hệ thống giao thông giảm phát thải carbon. Tuy nhiên, Giám đốc điều hành Damen Shipyards Gorinchem cũng đặt vấn đề về nguồn nhân lực tại Việt Nam. Ông Maarten de Vries, Giám đốc Tập đoàn sơn AkzoNobel, đề cập vấn đề sở hữu trí tuệ và việc đầu tư cho lĩnh vực logistics, đồng thời cho biết sẵn sàng đồng hành cùng Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu. VIỆT NAM KÊU GỌI TIẾP CẬN CÔNG BẰNG, CÔNG LÝ VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN Trả lời các ý kiến, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, phải thực hiện đồng thời các biện pháp như giảm phát thải khí nhà kính, khí metal trong nông nghiệp, đẩy mạnh trồng rừng, chuyển đổi năng lượng từ sử dụng năng lượng hóa thạch sang sử dụng năng lượng sạch như mặt trời, gió… trong quá trình này, phải có hợp tác toàn cầu, đoàn kết quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương, đồng thời lấy người dân làm trung tâm, làm chủ thể. Theo Thủ tướng, Việt Nam đã đưa ra các cam kết cụ thể tại COP26. Về chuyển đổi năng lượng, Thủ tướng cho biết Việt Nam là nước nhiệt đới gió mùa, có tiềm năng lớn về năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. "Là một nước đang phát triển, kinh tế đang chuyển đổi, nhưng phải làm những công việc như các nước phát triển trong ứng phó biến đổi khí hậu, nên Việt Nam kêu gọi cách tiếp cận công bằng, công lý, với sự hỗ trợ của các nước phát triển. Trong phát triển năng lượng tái tạo, Việt Nam cần sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế về vốn, công nghệ, đào tạo nhân lực, quản trị và xây dựng, hoàn thiện thể chế", Thủ tướng nêu rõ. Mặt khác, việc phát triển điện phải tính toán tổng thể cả 5 yếu tố: Nguồn điện, tải điện, phân phối, sử dụng và giá điện phải phù hợp. Muốn giá điện giảm thì một yếu tố rất quan trọng là chi phí vốn, do đó, Thủ tướng đề nghị các đối tác quốc tế cho Việt Nam vay vốn phát triển năng lượng tái tạo với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ Việt Nam xây dựng nền công nghiệp năng lượng sạch. "Chúng tôi tin chắc là chúng tôi làm được, vì đây là đòi hỏi tất yếu, khách quan. Các ngài giúp được thì chúng tôi làm nhanh hơn", Thủ tướng nhấn mạnh. Thủ tướng cũng nêu định hướng phát triển nông nghiệp bền vững, theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh, trong đó có việc quản lý nguồn nước bền vững. Ông cho biết thêm, nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế Việt Nam, giúp Việt Nam bảo đảm được cân đối lớn về lương thực, thực phẩm, góp phần kiểm soát được lạm phát, đồng thời xuất khẩu khoảng 7 triệu tấn gạo và khoảng 50 tỷ USD nông sản trong năm nay. MỤC TIÊU TRỞ THÀNH TRUNG TÂM LOGISTICS TOÀN CẦU Với bờ biển dài 3.260 km, Thủ tướng cho rằng Việt Nam mong muốn hợp tác với Hà Lan trong xây dựng các cảng biển, góp phần thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam thành một trung tâm logistics, trung chuyển hàng hóa quốc tế. Đồng thời, với lưu lượng hàng hóa lớn qua đường hàng hải quốc tế trên Biển Đông, Việt Nam nhất quán quan điểm bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng không, hàng hải trên Biển Đông, giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Mặt khác, việc khai thác cát và các tài nguyên biển phải bảo đảm phát triển bền vững, "nếu làm mà ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển bền vững thì dứt khoát không làm, nếu làm mà có tác động tích cực tới phát triển bền vững thì phải khuyến khích". Thủ tướng cho biết Việt Nam hoan nghênh cơ chế mua bán điện trực tiếp theo tinh thần hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro giữa các bên, đề nghị Bộ Công Thương tiếp tục thúc đẩy cơ chế này, khuyến khích các nhà đầu tư phát triển điện mặt trời áp mái… Về nguồn nhân lực, Việt Nam đang nỗ lực nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài với các chính sách cụ thể. Thủ tướng đề nghị các doanh nghiệp Hà Lan đầu tư vào Việt Nam có thể "đặt hàng" với các trường đại học của Việt Nam về đào tạo nhân lực. Thủ tướng cũng thông tin tới các nhà đầu tư về chính sách chống chuyển giá, tránh đánh thuế hai lần, bảo hộ sở hữu trí tuệ… và đề nghị các nhà đầu tư đồng hành, hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực này. Thủ tướng đồng thời nhấn mạnh định hướng đưa quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hà Lan chủ yếu từ quan hệ đối tác phát triển thời gian qua sang hợp tác cùng có lợi trong thời gian tới.
Thành phố Hải Phòng phát triển dịch vụ logistics hiện đại, thông minh, hiệu quả, đẳng cấp quốc tế, phù hợp với bối cảnh, tình hình phát triển chung của Thành phố, đặc biệt chú trọng đến logistics hàng không, hàng hải. Đó là nội dung Thông báo số 39/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Hải Phòng. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với lãnh đạo thành phố Hải Phòng, vừa qua. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ghi nhận, biểu dương, đánh giá cao nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Thành phố và những thành tựu quan trọng đạt được về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của cả nước trong năm 2021. Bên cạnh những kết quả đạt được, Thành phố còn những tồn tại, hạn chế như: quy mô kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và với sự đầu tư, quan tâm của Trung ương; phát triển văn hóa chưa ngang tầm với phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác; hiệu quả quản trị hành chính công và công tác chuyển đổi số của Thành phố chưa được cải thiện (nhiều chỉ số như hiệu quả quản trị và hành chính công, ứng dụng công nghệ thông tin, mức độ chuyển đổi số còn ở vị trí khiêm tốn trên bảng xếp hạng cả nước); phát triển dân số cơ học chưa tương xứng với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của Thành phố, thiếu nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; thu ngân sách mặc dù đạt cao nhưng tỷ trọng thu nội địa chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh. Về định hướng trong thời gian tới, Thành phố khẩn trương triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ đã được xác định tại Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển Hải Phòng, Nghị quyết số 108/NQ-CP ngày 26/11/2019 của Chính phủ, Nghị quyết 35/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng. Phát huy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để phát triển nhanh, toàn diện, bền vững về an ninh quốc phòng, kinh tế - xã hội. Trong đó, phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp xanh, hiện đại; du lịch theo hướng du lịch sinh thái, chất lượng cao; dịch vụ theo hướng tiên tiến, thông minh, thuận lợi; nông nghiệp theo hướng nông nghiệp xanh, sạch, bền vững. Phát triển hài hòa trên mọi lĩnh vực, nhất là phát triển văn hóa phải tương xứng với phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng; có kế hoạch tăng dân số cơ học và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phải xác định nguồn lực bên trong (với ba trụ cột là con người, thiên nhiên, truyền thống văn hóa lịch sử) là cơ bản, lâu dài, chiến lược, quyết định còn nguồn lực bên ngoài (nguồn vốn, công nghệ, năng lực quản trị…) là quan trọng và đột phá. Phát huy tối đa lợi thế cảng biển Lạch Huyện là cảng nước sâu hiện đại, lớn nhất khu vực miền Bắc nên việc quản lý, thiết kế cảng phải theo mô hình quản trị hiện đại, quản lý bằng công nghệ số, đẩy mạnh tự động hóa, xây dựng cảng xanh, sạch, không gây ô nhiễm môi trường; đầu tư phát triển các khu công nghiệp lớn theo mô hình 5 trong 1, hạ tầng đồng bộ công nghiệp, dịch vụ, thành phố thông minh, y tế, giáo dục. Cần xây dựng thành phố Hải Phòng trở thành trung tâm kết nối vùng, liên kết vùng; thành phố Hải Phòng phải đóng góp nhiều hơn nữa cho cả nước để đưa đất nước cùng phát triển, xứng đáng với sự quan tâm, đầu tư rất lớn từ Trung ương và điều kiện tự nhiên nhiều tiềm năng, lợi thế của Thành phố. Thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, mạnh hơn, quyết liệt hơn và hiệu quả hơn Về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới, quán triệt và thực hiện nghiêm túc, thiết thực, hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết 35/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng, các nghị quyết của Chính phủ và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố. Thành phố cần tiếp tục thực hiện phòng, chống dịch hiệu quả, thành công để khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thành việc tiêm vaccine cho người trên 18 tuổi trong tháng 12 năm 2021, hoàn thành tiêm mũi thứ 3 trong quý I năm 2022 và hoàn thành tiêm vaccine cho lứa tuổi 12-17 trong tháng 01 năm 2022. Nghiên cứu xây dựng quy hoạch Thành phố bài bản, chiến lược, có tầm nhìn xa, tư duy đổi mới để nhận diện, phát huy tiềm năng, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, phát huy tối đa hiệu quả các nguồn lực đất đai, rừng, nước, tài nguyên thiên nhiên sẵn có của Thành phố. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, nâng cao một số chỉ số hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển dịch vụ logistics hiện đại, thông minh, hiệu quả, đẳng cấp quốc tế, phù hợp với bối cảnh, tình hình phát triển chung của Thành phố, đặc biệt chú trọng đến logistics hàng không, hàng hải. Thúc đẩy công tác chuyển đổi số nhanh hơn, mạnh hơn, quyết liệt hơn và hiệu quả hơn; tập trung nghiên cứu năng lượng xanh, năng lượng sạch, nhất là năng lượng gió ngoài khơi, do vậy việc nghiên cứu phát triển các dự án điện khí LNG nên dành cho các địa phương khác, đảm bảo cân đối hài hòa phát triển năng lượng giữa các vùng miền. Tiếp tục giữ vững và phát huy đoàn kết, thống nhất, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên, chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, tập trung huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia trên biển, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, an ninh, an toàn, an dân; không ngừng nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân, phát triển xứng tầm với vị thế, vai trò của một thành phố lớn, giàu truyền thống lịch sử - cách mạng, xứng đáng với mong muốn của nhân dân Hải Phòng và đồng bào cả nước. Khẩn trương hoàn thiện hồ sơ điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Hải Phòng Thủ tướng Chính phủ cơ bản đồng ý với các kiến nghị của thành phố Hải Phòng theo hướng giải quyết các cơ chế chính sách, phân cấp, phân quyền, nâng cao tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của Thành phố. Thành phố lựa chọn các Dự án có tính khả thi, đủ thời gian, điều kiện, nguồn lực, năng lực để triển khai cho hiệu quả. Về phê duyệt Đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Hải Phòng đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050, việc điều chỉnh quy hoạch cần tuân thủ nguyên tắc đúng định hướng, mục tiêu tại Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị; Chương trình hành động số 76-Ctr/TU ngày 08/7/2019 của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng; kế thừa và phát huy tư tưởng, nội dung tại Quyết định số 1448/QĐ-TTg ngày 16/09/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 535/QĐ-TTg ngày 15/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Hải Phòng đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050. Thủ tướng Chính phủ giao Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng khẩn trương hoàn thiện hồ sơ điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Hải Phòng đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2050, lưu ý bảo đảm không điều chỉnh đất cây xanh sang thực hiện các chức năng khác, định hướng quy hoạch tăng tỷ lệ đất cây xanh khi di chuyển nhà máy, xí nghiệp, cơ quan tại khu vực đô thị trung tâm đảm bảo đạt tiêu chuẩn đô thị đặc biệt và những dự án sai phạm đang xử lý không đưa vào điều chỉnh quy hoạch theo đúng ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Lê Văn Thành tại Thông báo số 275/TB-VPCP ngày 22/10/2021, gửi Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xem xét theo đúng quy định pháp luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Về điều chỉnh quy hoạch Cảng Hàng không quốc tế Cát Bi với công suất dự kiến đạt 13 triệu hành khách đến năm 2030 và 16,6 triệu hành khách đến năm 2040, Thủ tướng Chính phủ đồng ý về chủ trương. Giao Bộ Giao thông vận tải khẩn trương hoàn thiện Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngày 07/12/2021; nghiên cứu lập quy hoạch chi tiết Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, trong đó bổ sung quy hoạch đường cất hạ cánh số 2, đảm bảo Cảng hàng không đạt được công suất đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Về việc nghiên cứu xây dựng Cảng hàng không quốc tế tại huyện Tiên Lãng sau năm 2030, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu phương án xây dựng Cảng Hàng không Tiên Lãng theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống Cảng hàng không sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt